Có 4 cách tăng vốn điều lệ trong công ty cổ phần là:
- Chào bán cổ phần ra công chúng.
- Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu.
- Chào bán cổ phần riêng lẻ.
- Việc chi trả cổ tức bằng cổ phần.
Chào bán cổ phần cho công chúng
Chào bán cổ phần ra công chúng là hình thức huy động vốn từ bên ngoài một cách rộng rãi. Các đối tượng có thể tham gia mua cổ phần bao gồm các nhà đầu tư không nhất thiết là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Pháp luật không đặt ra bất kỳ hạn chế nào về số lượng tối đa các nhà đầu tư tham gia mua chứng khoán phát hành ra công chúng mà tùy theo nhu cầu và nguồn vốn trên thị trường.
Tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trừ một số trường hợp luật quy định.
Việc chào bán cổ phần ra công chúng phải đáp ứng điều kiện được quy định cụ thể tại Luật Chứng Khoán.
Ưu điểm
Ngoài những ưu điểm chung của một hoạt động chào bán chứng khoán thì phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng có những ưu điểm đặc thù sau:
– Chứng khoán được chào bán ra công chúng được phép niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung (sở giao dịch hay các trung tâm giao dịch chứng khoán) đồng nghĩa với việc công ty đang công khai gọi vốn từ công chúng gồm các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức trên phạm vi rộng từ trong ra ngoài nước. Do đó, số lượng các nhà đầu tư chào bán càng lớn thì khả năng công ty bán hết số chứng khoán dự định cũng càng lớn, các nhà đầu tư có thể chuyển vốn cho công ty bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó vì các công ty chào bán chứng khoán ra công chúng được phép niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nên có lợi thế trong việc tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng cho công ty, đây được đánh giá là một phương pháp quảng cáo hiệu quả. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng có sự tham gia của hàng ngàn các nhà đầu tư còn giúp công ty bán được chứng khoán với mức giá hợp lý. Do vậy giá chứng khoán chào bán ra công chúng cũng cao hơn giá chứng khoán chào bán riêng lẻ. Công ty cũng sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau.
– Các công ty muốn chào bán chứng khoán ra công chúng họ phải trải qua một thủ tục phức tạp và chặt chẽ như đã phân tích ở trên cho nên giới kinh doanh đều coi đây là những công ty có sự ổn định nhất định. Đây là ưu thế để công ty kiếm tìm bạn hàng và ký thêm nhiều hợp đồng mới. Thêm vào đó, khách hàng và nhà cung ứng hiện tại của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty nên công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
– Việc chào bán chứng khoán ra công chúng làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các công ty đại chúng cũng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra việc chào bán chứng khoán ra công chúng cũng giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài.
– Việc chào bán chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ phiếu nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty chính là sự thành bại của bản thân mình.
– Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiếm tra và cân đối trong quản lý và điều hành công ty.
– Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
Nhược điểm
– Bởi lẽ công ty phát hành một khối lượng cổ phiếu lớn ra công chúng nên có thể làm phân tán quyền sở hữu và làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do công ty có thể trở thành mục tiêu của các hoạt động thôn tính. Sự thôn tính này có thể là kết quả của việc các cổ đông công ty bất bình với đội ngũ những người quản lý công ty và sẵn sàng tìm kiếm cơ hội để chào bán cổ phiếu hàng loạt. Để chống lại những cuộc thôn tính thù địch đó, công ty sẽ mất rất nhiều thời gian và tiền bạc. Bên cạnh đó cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
– Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm 8-10% khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết,… Ngoài ra hàng năm, công ty cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính, chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và chi phí công bố thông tin định kỳ.
– Công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ từ pháp luật. Một khi công ty đã hoàn tất việc chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty sẽ phải tuân thủ những yêu cầu về công bố thông tin định kỳ và bất thường theo những biểu mẫu, báo cáo mà pháp luật chứng khoán quy định. Ví dụ theo quy định tại Điều 29 Luật Chứng Khoán quy định công ty khi chào bán chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin, một trong những thông tin Công ty phải công bố là bản cáo bạch. Điều 19 Luật Chứng khoán cho thấy bản cáo bạch chứa rất nhiều thông tin quan trọng như tình hình tài chính, nhân sự chủ chốt của công ty thậm chí là các thông tin liên quan đến sự kiện bất thường của công ty. Như vậy để chấp hành chế độ công bố thông tin, công ty phải đối mặt với ít nhất hai bất lợi: Một là, công ty mất thêm thời gian và chi phí cho các dịch vụ pháp lý và dịch vụ kế toán để hoàn tất báo cáo theo đúng luật. Hai là, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
– Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng. Người quản lý công ty có thể mất đi tính năng động để hành động kịp thời trong việc xử lý các tình huống mà luật yêu cầu phải được sự phê chuẩn của đại hội cổ đông. Các quyết định của người quản lý công ty có thể bị ảnh hưởng bởi trị giá cổ phiếu và cảm giác rằng họ buộc phải làm cho thị trường thừa nhận cổ phiếu của công ty. Điều này dẫn đến hiện tượng công ty có những hoạt động nhằm thu được lợi nhuận trước mắt thay vì đem lại lợi ích lâu dài cho công ty. Ngoài ra, do quy định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường bị hạn chế.
– Nếu thị giá cổ phiếu của công ty giảm, công ty có thể mất uy tín trên thị trường. Sự giảm giá trị của công ty có thể ảnh hưởng đến mức độ tín nhiệm của công ty, tới giá cổ phiếu sẽ chào bán thêm, tới khả năng của công ty trong việc duy trì đội ngũ nhân viên đang làm việc trong công ty và tới tài sản của từng cá nhân các cổ đông công ty.
Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu
Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu là trường hợp công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán toàn bộ số cổ phần đó cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty. Cách huy động vốn này không làm tăng số lượng cổ đông của công ty song vẫn làm tăng vốn điều lệ. Việc chào bán cho cổ đông hiện hữu trong công ty không phải là công ty đại chúng được thực hiện như sau:
– Công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ liên lạc của họ trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất 15 ngày trước ngày kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần;
– Trường hợp số lượng cổ phần dự kiến chào bán không được cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng ký mua hết thì Hội đồng quản trị có quyền bán số cổ phần được quyền chào bán còn lại đó cho cổ đông của công ty hoặc người khác theo cách thức hợp lý với điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã chào bán cho các cổ đông, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông có chấp thuận khác hoặc cổ phần được bán qua Sở giao dịch chứng khoán.
– Cổ tức phải được thanh toán cho cổ đông đầy đủ trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày kết thúc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên.
Ưu điểm:
- Cổ phiếu chào bán cổ đông hiện hữu giá thấp hơn thị trường.
- Phần nào đều đảm bảo cho họ có tỷ lệ sở hữu giữ nguyên nếu tất cả các cổ đông hiện hữu được hưởng quyền này đều thực hiện quyền.
Nhược điểm:
- Phát hành thêm cổ phiếu, cổ phiếu tăng lên, giá thường sẽ điều chỉnh giảm
Chào bán cổ phần riêng lẻ
Đây cũng là hình thức huy động vốn từ bên ngoài công ty nhưng mang tính riêng lẻ, dành cho công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng. Đối tượng có thể mua cổ phần riêng lẻ thường là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và trong giao dịch thường có ít hơn một trăm nhà đầu tư.
Việc chào bán cổ phần riêng lẻ được thực hiện như sau:
– Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định chào bán cổ phần riêng lẻ, công ty phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ với Cơ quan đăng ký kinh doanh.
– Công ty có quyền bán cổ phần sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày gửi thông báo mà không nhận được ý kiến phản đối của Cơ quan đăng ký kinh doanh;
– Công ty thực hiện đăng ký thay đổi vốn điều lệ với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành đợt bán cổ phần.
Ưu điểm
– Những doanh nghiệp nhỏ không đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết để có thể chào bán chứng khoán ra công chúng;
– Những doanh nghiệp lớn, thậm chí là những công ty đại chúng nhưng lại chỉ cần huy động lượng vốn nhỏ mà nếu chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ phải tải số chi phí chào bán quá cao, khi đó giá vốn huy động được sẽ trở nên quá đắt đỏ;
– Các công ty cổ phần cần tăng vốn điều lệ bằng cách chào bán thêm cổ phiếu. Thay vì chào bán ra công chúng, các công ty này thường lựa chọn phương thức chào bán riêng lẻ cho các cổ đông hiện hữu, tương ứng với tỉ lệ sở hữu vốn cổ phần của họ trong công ti và đặc biệt chào bán riêng lẻ cho các đối tác chiến lược nhằm huy động vốn nhanh với chi phí thấp;
– Việc chào bán của doanh nghiệp chỉ nhằm thực hiện mục tiêu cụ thể nào đó của doanh nghiệp, ví dụ nhằm củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa công ty phát hành với các chủ thể đặc biệt như giám đốc công ti, người làm công của công ti hoặc với những chủ thể có quan hệ chặt chẽ với công ty trong quá trình kinh doanh (cung ứng nguyên, vật liệu trọng yếu phục vụ hoạt động sản xuất của tổ chức phát hành, thường xuyên tiêu thụ lượng sản phẩm lớn cho tổ chức phát hành…).
Thể thức chào bán chứng khoán riêng lẻ khá đơn giản. Chủ thể phát hành không cần làm thủ tục đăng kí chào bán với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán. Tuy nhiên, chủ thể phát hành vẫn phải đảm bảo cung cấp cho các nhà đầu tư một cách đầy đủ, trung thực các thông tin về cuộc chào bán và về bản thân tổ chức phát hành và về loại chứng khoán sắp chào bán thông qua việc công bố thông báo chào bán chứng khoán riêng lẻ. Trong chào bán chứng khoán riêng lẻ, các ngân hàng đầu tư thường tham gia với tư cách là tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là các nhà đầu tư là cá nhân không có quyền mua chứng khoán chào bán riêng lẻ mà họ vẫn có thể mua nhưng số lượng nhà đầu tư cá nhân trong chào bán chứng khoán riêng lẻ thường nhỏ hơn con số đó trong chào bán chứng khoán ra công chúng rất nhiều lần. Vì vậy, quy mô thiệt hại có thể gây ra cho các nhà đầu tư nhỏ từ chào bán riêng lẻ không đáng kể so với trường hợp chào bán ra công chúng.
Nhược điểm
Nếu như phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng được xem như một cách thức quảng cáo hình ảnh của doanh nghiệp hiệu quả thì chào bán chứng khoán riêng lẻ không thể tiến hành rộng rãi trong công chúng, điều có có nghĩa không đạt được hiệu quả quảng bá hình ảnh cùng với đó là khả năng huy động vốn không cao.
Thanh toán cổ tức bằng cổ phần
Trường hợp công ty cổ phần thực hiện chi trả cổ tức bằng cổ phần thì công ty không phải làm thủ tục chào bán cổ phần, nhưng phải đăng ký tăng vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị mệnh giá các cổ phần dùng để chi trả cổ tức trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hoàn thành việc thanh toán cổ tức.
Ưu điểm
– Công ty giữ được nguồn vốn để mở rộng kinh doanh.
– Tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu. Việc ban hành thêm cổ phiếu làm giá thị trường giảm, từ đó tiếp cận thêm nhiều nhà đầu tư hơn.
Nhược điểm
– Giá cổ phiếu giảm sút sau khi được trả cổ tức.
– Dùng nguồn vốn trong đầu tư sẽ không tạo lợi nhuận, từ đó giá cổ phiếu sẽ giảm.
NĐT muốn hỗ trợ tư vấn xin liên hệ theo thông tin sau:
SĐT/Zalo/SMS: 0353899153
Anh (Chị) muốn mở tài khoản nhấn tại đây hoặc quét mã QR code
Anh (Chị) lưu ý check kĩ thông tin người giới thiệu ID 1378- Nguyễn Ngọc Huyền
Chúc Anh (Chị) giao dịch thành công